Đấu thầu, dự án
Đăng ngày: 12/08/2018 - Lượt xem: 61
Một số trận càn lớn của thực dân Pháp ở Hưng Yên trong thời kỳ 1949 - 1954 (Phần I)

Là một trong những tỉnh có vị trí “địa quân sự” hết sức quan trọng (cửa ngõ phía đông – đông nam Thủ đô, án ngữ tuyến đường huyết mạch Hà Nội – Hải Phòng), Hưng Yên trở thành một tỉnh có vị trí đặc biệt trọng trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, Đảng bộ, quân và dân Hưng Yên đã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cả nước.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Hòa trong không khí đón mừng thắng lợi của cả nước, ngày 23-8-1945, Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Hưng Yên ra mắt nhân dân, quản lý và điều hành công việc của tỉnh. Đến ngày 25-8-1945, chính quyền cách mạng được xác lập hoàn toàn trong phạm vi toàn tỉnh. “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp lại gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Cùng với cả nước, quân và dân Hưng Yên đã huy động toàn bộ sức người, sức của cho cuộc chiến tranh.
Nhận thấy Hưng Yên là một mảnh đất có vị trí quan trọng trong chiến tranh nên thực dân Pháp đã tìm mọi cách bình định, đánh chiếm Hưng Yên nhằm biến Hưng Yên thành chỗ dựa vững chắc, làm bàn đạp tấn công Hà Nội, Hải Phòng. Tính từ năm 1949 đến năm 1954, thực dân Pháp đã tiến hành hàng chục trận càn lớn nhỏ, tiêu biểu nhất là 5 trận càn Điabôlô (12-1949), Trái Chanh (9-1951), Lạc Đà (3-1952), Cá Măng (9-1953), Angiêri (1-1954) gây thiệt hại lớn về người và của cho Hưng Yên.

1. Trận càn Điabôlô (12-1949)

Ngày 22-12-1949, địch triển khai chiến dịch Điabôlô (Con quay). Đây là cuộc tiến công lớn nhất của địch từ trước đến nay trên địa bàn tỉnh ta. Chiến dịch được triển khai trong 10 ngày (từ ngày 22 đến ngày 31-12-1949) với một lực lượng lớn, gồm 2 binh đoàn thiện chiến nhất lúc đó (Communal và Beaufred). Một tàu chiến tăng cường (Dinaseau renforce) chở bộ binh và thủy quân lục chiến làm nhiệm vụ vu hồi chiến. Tổng cộng có khoảng 4.000 quân. Với chiến dịch này, địch đánh phá, càn quét địa bàn 10 huyện tự do phía nam 2 tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, trong đó có 5 huyện của Hưng Yên là Khoái Châu, Ân Thi, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ và thị xã Hưng Yên.
Mục tiêu chính của chiến dịch này là chiến nốt vùng tự do phía nam tỉnh, cùng với các chiến dịch khác hoàn thành đánh chiếm toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, chiến kho người, kho của để thựuc hiện chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt”.
Địch tiến công theo hai hướng chính (theo hướng đường 5 và hướng phía nam dùng quân thủy) với 13 mũi tiến công. Riêng địa bàn Hưng Yên, địch sử dụng 7 cánh quân từ 7 hướng.
Chỉ trong vòng có 3 ngày (từ 22 đến 24-12-1949), địch đã kiểm sóat được địa bàn chiến dịch, chiếm đóng 20 vị trí, mỗi vị trí một đại đội, khu vực thị xã có 2 tiểu đoàn ứng chiến, lập 15 vị trí vệ sĩ phản động, mỗi nơi đóng từ 1 đến 3 trung đội. Từ ngày 24-12-1949, địch chia quân, sử dụng cả quân cơ động và bọn phản động tại chỗ tiến hành càn quét tòan bộ địa bàn chiến dịch, chiếm đóng tiếp 10 vị trí ở các khu then chốt khác là Quang Xá (Phù Cừ), Phố Giác, Mai Xá, Đầu Đặng (Tiên Lữ), Kênh Khê, An Vĩ, An Lạc (Khoái Châu), Thổ Hoàng, Bảo Tàng, Đỗ Mỹ (Ân Thi)… Ngoài ra, địch lập tiếp vệ sĩ ở 9 nhà thờ Bầu, Đại Nại (Tiên Lữ), Vĩnh Phúc, Hoàng Xá, Hoàng Độc, Dũng Kim (Kim Động), Hạ Lễ, Đan Tràng, Lễ Xá (Ân Thi).
Đến ngày 31-12-1949, địch cơ bản đã hoàn thành xong mục tiêu, kết thúc chiến dịch Điabôlô, đóng lại 44 vị trí ở Hưng Yên và Hải Dương, trong đó Hưng Yên có 30 vị trí; lập vệ sĩ phản động ở 25 nhà thờ, ở Hưng Yên chiếm đến 24 nhà thờ.
Về phía ta, sau khi địch tấn công, hàng trăm làng chiến đấu được chuẩn bị từ trước, do bị bất ngờ nên hoàn toàn bị động và cơ bản không đối phó được với cuộc hành quân của địch. Tiêu biểu nhất cho sự phản công của ta trong chiến dich này đó là trận đánh của Tiểu đoàn 124 (Trung đoàn 42) tại Đồng Thiện (Tiên Lữ) tiêu diệt được trên 50 tên địch. Ngoài ra còn một số trận đánh du kích lẻ tẻ diễn ra trên địa bàn các huyện như Phùng Hưng, Đại Hưng, Liên Khê (Khoái Châu); Nguyễn Trãi, Hồ Tùng Mậu, Hồng Quang… (Ân Thi); Ngũ Lão, Chính Nghĩa, Thống Nhất (Kim Động)… Kết thúc trận càn, ta cũng đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 400 tên địch, phá hủy 10 xe quân sự.
Trận càn Điabôlô đã gây một tâm lý hoang mang, dao động ở Hưng Yên vì ta bị bất ngờ cả về thời gian, tính chất, mục đích của địch. Sau trận càn này, các cơ quan, các ngành, các giới và nhân dân trong tỉnh đã phải sơ tán sang các tỉnh bạn, chờ thời cơ trở về quê hương.

2. Trận càn Trái Chanh (9-1951)

Sau khi Hưng Yên kết thúc đợt hoạt động mở khu du kích thứ tư (15-9-1951) thì Bộ Chỉ huy Pháp mở chiến dịch Trái Chanh (Citron) đánh vào địc bàn các huyện Phù Cừ, Tiên Lữ, Ân Thi (Hưng Yên), Bình Giang, Thanh Miện, Ninh Giang (Hải Dương). Lực lượng của địch tham gia chiến dịch này gồm: 3 binh đoàn cơ động (GM 1,2,3) và lực lượng phối thuộc, tổng cộng 11 tiểu đoạn, với khoảng 10.000 quân, và 4 cụm pháo binh lớn đặt ở La Tiến, Chợ Thi, Ninh Giang, Kẻ Sặt.
Thủ đoạn chiến thuật của địch trong chiến dịch do tướng Đờ Becsu chi huy là: sử dụng cao độ các phương tiện cơ động tập trung – hỏa lực truy diệt lực lượng vũ trang của ta; phát hiện bộ đội ta ở đâu là bí mật, khẩn trương hợp vây, dùng máy bay – pháo binh oanh kích dữ dội xung phong đánh chiếm từng khu vực; nếu vồ hụt hoặc đối phương luồn càn thì chuyển ngay lực lượng cơ động truy kích, hợp vây ngay trên địa bàn mới. Vừa truy diệt chủ lực ta, địch vừa đẩy chiến “chiến tranh tổng lực” lên cao độ, truy bắt thật nhiều thanh niên, cướp và phá triệt để của cải, tàn phá công cụ sản xuất, hòng làm kiệt quệ toàn diện tiềm lực kháng chiến của ta.
Trên địa bàn Hưng Yên, địch triển khai chiến dich “Trái Chanh” theo 2 hướng chính: Một cánh quân từ Ân Thi tiến xuống Bắc Phù Cừ. Một cánh quân từ La Tiến đánh lên khu Trung Phù Cừ. Từ 2 cánh quân đó, hình thành thế bao vây và tiến hành đánh phía Tây Thanh Miện.
Đêm ngày 24 rạng ngày 25-9-1951, địch bắt đầu triển khai chiến dịch. Địch hành quân ngày các làng ta đóng quân nên khi trinh sát phát hiện được thì chúng đã bao vây đang đào công sự, chờ trời sáng để tiến công. Do không nắm được địch từ sớm nên không kịp sơ tán dần, Ban Chỉ huy Tỉnh đội do Tỉnh đội trưởng Võ An Đông trực tiếp chỉ huy ra lệnh cho các đại đội quyết tâm chiến đấu cố thủ giữ vững trận địa, đến đêm sẽ phá vây, và cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương động viên nhân dân và quân dân du kích phối hợp và phục vụ bộ đội.
Ở phía bắc, sau khi bắn pháo vào Long Cầu, Đồng Kệ, Phú Mãn, địch tiến công vào Long Cầu, Đại đội 22 và trung đội trợ chiến đã độc lập tác chiến rất dùng cảm và sáng tạo, buộc địch phải dừng chân ở ngoài làng. Không chịu thất bại, địch huy động  pháo ở bốt La Tiến và 8 máy bay đến bắn pháo và ném bom na pan vào làng, tuy nhiên, quân và dân Long Cầu – Phú Mãn đã đánh bật những đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa.
Cánh quân địch ở phía nam tiến đến đầu thôn Ngũ Lão thì bị Đại đội 27 phục kích chặn đánh ngay từ ngoài làng, chúng hoảng hốt tháo chạy về bốt Nhật Lệ.
Ở Phan Tống Xá, cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt hơn. Từ mờ sáng trinh sát địch đã vào đến cổng làng, không phát hiện thấy gì, chúng quay ra gọi đồng bọn ở phía sau lên. Đại đội 20 bố trí 2 trung đội ở Phan Xá để địch vào cách 10 mét mới nổ súng và phối hợp với trung đội bố trí ở Tống Xá xuất kích bắt tù binh, thu vũ khí. Qua 7 lần xung phong mà địch vẫn không đột phá được vào làng.
Kết quả, qua một ngày chiến đấu, quân và dân ta ở 2 trận địa Phan Tống Xá và Long Cầu, Phú Mãn đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.050 tên địch, bắt sống 25 lính Âu Phi, xóa sổ tiểu đoàn 4 thuộc Trung đoàn 7 bộ binh Angiêri, thu hàng trăm khẩu súng. Về phía ta, bị hy sinh hơn 1 trung đội. Đến đêm ngày 27-9-1951, bộ đội ta bí mật thoát khỏi vùng vây luồn sang Thái Bình an toàn.
Chiến thắng Phan Tống Xá, Long Cầu không chỉ có ý nghĩa về tác chiến tiêu diệt được nhiều địch, bắt sống nhiều tù binh, thu vũ khí, bảo vệ dân, bảo toàn lực lượng, mà còn là thực tế sinh động về lối đánh kết hợp giữa bộ đội địa phương và dân quân du kích của ta. Chúng ta thấy, đây không phải là một trận thắng ngẫu nhiên của quân và dân ta, mà đó là kết quả của một tư duy quân sự nhạy bén, đúng đắn của người chỉ huy; sự chuẩn bị kỹ lưỡng của quân và dân; lối đánh phối hợp ăn ý, chặt chẽ giữa bộ đội địa phương với dân quân du kích. Chiến thắng này đã chứng tỏ sự lớn mạnh của quân và dân vùng sau lưng địch, lực lượng địa phương đã có thể làm chủ địa bàn, có thể đánh tan những âm mưu “bình định cấp tốc”, thể hiện cục diện chiến tranh ở địa phương đã có những chuyển biến rõ rệt, có lợi cho ta.
Chiến thắng này, không chỉ có ý nghĩa to lớn về chính trị, quân sự mà còn củng cố lòng tin ở nhân dân đối với cách mạng đất nước nói chung và của tỉnh nói riêng. Nó đã tạo đà cho những cuộc tấn công của quân và dân tỉnh ta thừa thắng xông lên, giành nhiều thắng lợi hơn nữa.

Còn nữa

Hoàng Thị Thanh Thúy – P.Lịch sử Đảng – BTGTU Hưng Yên


* Bài viết có sử dụng tư liệu trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên tập 1 (1929-1954)” và cuốn “Hưng Yên lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975)”

Tin liên quan